Với lợi thế có hệ thống sông, suối dày đặc phủ khắp các huyện, thành phố, lưu lượng dòng chảy ổn định đã tạo nên các thủy vực và hồ chứa rất lớn. Các sông chảy qua địa bàn tỉnh Thanh Hóa có nước sạch, chế độ dòng chảy tương đối ổn định và phù hợp cho phát triển nuôi trồng thủy sản. Thêm vào đó, Thanh Hóa còn có tiềm năng rất lớn về diện tích nuôi trồng thủy sản, toàn tỉnh có trên 18.000 ha mặt nước được cho phù hợp với nuôi trồng thủy sản (Sở NN và PTNT, 2019). Vì thế trong những năm qua phát triển thủy sản được Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Thanh Hóa xác định là một trong những chương trình nông nghiệp trọng điểm. Phong trào phát triển nuôi trồng thủy sản ngày một phát triển mạnh mẽ, đặc biệt trong đó hình thức nuôi cá lồng trên sông, nuôi cá trong ao đất được tỉnh đặc biệt quan tâm.
Theo Báo cáo của Sở NN và PTNT Thanh Hóa, tốc độ chuyển đổi và sản lượng nuôi trồng thủy sản ngày càng tăng; năm 2010 tổng diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản toàn tỉnh là 13.613 ha, trong đó có 2.285 ha ao gia đình; 10.188 ha mặt nước sông; 1.140 ha hồ chứa nước vừa và nhỏ có thể nuôi thủy sản theo hình thức thâm canh, bán thâm canh và quảng canh; hơn 1.000 ha ruộng cấy lúa có thể kết hợp nuôi thủy sản; 610 hồ đập với hơn 2.000 ha diện tích mặt nước có thể nuôi thả, nuôi lồng và bảo tồn các giống loài thuỷ sản quý hiếm. Đến năm 2016, diện tích mặt nước nuôi thủy sản đạt hơn 18.000ha, bao gồm các ao, hồ nhỏ, hồ thủy lợi và một phần diện tích ruộng kết hợp cấy lúa; sản lượng thủy sản tăng bình quân hơn 10%/năm (năm 2009 là 27.862 tấn; năm 2014 đạt 45.775 tấn và năm 2016 đạt 51,1 nghìn tấn). Đối tượng nuôi nước ngọt chủ yếu vẫn là cá truyền thống, chiếm khoảng 70% diện tích và sản lượng, bao gồm: cá Mè, Trắm, Chép, Trôi,...; các đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao như: Rô phi đơn tính, Chép lai, Chim trắng, Diêu hồng... và loài đặc sản Ba ba, Lươn, Ếch … chiếm khoảng 30%. Hình thức nuôi hiện nay chủ yếu là nuôi ghép chiếm 90%, nuôi đơn chiếm 10% diện tích. Cùng với đó, trên địa bàn tỉnh có 44 trại sản xuất nước ngọt cung ứng trên 1 tỷ cá bột và 300 triệu cá giống (mè, trôi, trắm, chép...) đáp ứng 100% nhu cầu nuôi của tỉnh và cung cấp cho một số tỉnh ngoài.
Thực trạng nghề nuôi cá lồng:
Thanh hóa là tỉnh có tiềm năng rất lớn để phát triển nghề nuôi cá lồng trên sông/hồ chứa, với hơn 1.140 ha chứa thủy lợi , đặc biệt ở các huyện miền núi, trung du như: Thường Xuân, Như Thanh, Thạch Thành, Bá Thước, Quan hóa, Mường lát, Triệu Sơn....Trong những năm gần đây, nghề nuôi Sông, Hồ chứa đã có những bước phát triển cả về năng suất, sản lượng và giá trị thu nhập.
Những tồn tại, hạn chế:
Tuy nhiên, về nuôi cá lồng đang còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập, chưa phát phát huy được vai trò và giá trị của nó, còn tồn tại, hạn chế:
- Vấn đề tiêu thụ sản phẩm còn nhiều rủi ro cho người nuôi do người sản xuất chưa có hợp đồng tiêu thụ sản phẩm.
- Sự liên kết giữa người nuôi với thị trường tiêu thụ hầu như chưa có, do vậy dẫn đến mất cân đối trong việc điều tiết thị trường, sản phẩm nuôi chưa thực sự ổn định.
- Hiện nay phần lớn các hộ nuôi cá lồng, nhất là cá Trắm cỏ, cá Chiên... nói chung đang sử dụng nguồn thức ăn là cỏ, lá, cá tạp...tốn nhiều công lao động giá thành sản phẩm còn cao, khả năng cạnh tranh kém.
Nguyên nhân:
- Quy mô sản xuất nhỏ lẻ, chưa hình thành liên minh sản xuất theo chuỗi.
- Việc ứng dụng công nghệ nuôi theo hướng công nghệ cao và an toàn vệ sinh thực phẩm còn nhiều hạn chế, do đó giá thành sản phẩm còn cao, khả năng cạnh tranh thấp.
- Thiên tai, dịch bệnh, tư thương ép giá và ứng dụng công nghệ nuôi mới đang là vấn đề tồn tại hạn chế phát triển nghề nuôi cá lồng.
Một số giải pháp phát triển bền vững nghề nuôi cá lồng trên sông, hồ chứa:
Trước thực trạng nêu trên,có thể khẳng định thanh hóa là tỉnh có tiềm nặng và cơ hội rất lớn để phát triển nghề nuổi cá lồng trên sông hồ. Tuy nhiên, để nghề nuôi cá lồng phát triển một cách hiệu quả bền vững, cần thực hiện một số giải pháp sau:
- Về quy hoạch: Cần có chính sách và quy hoạch vùng nuôi nuôi để phát triển bền vững hài hòa các đối tượng nuôi trong khu vực.
- Giải pháp về giống: Tăng cường công tác quản lý nhà nước kiểm tra kiểm soát của các cơ quan chức năng trong sản xuất giống, nâng cao nhận thức và cách phân biệt chất lượng giống nuôi của người sản xuất thông qua hoạt động khuyến ngư. Đảm bảo giống sạch đáp ứng 100% nhu cầu nuôi.
- Về khoa học và công nghệ: Phối hợp với các Trường, Viện nghiên cứu tăng cường nghiên cứu kỹ thuật tiên tiến, nhanh chóng chuyển giao các qui trình, công nghệ tiên tiến trong sản xuất giống, nuôi thương phẩm và chế biến tiêu thụ sản phẩm. Đặc biệt là thay đổi hình thức nuôi từ sử dụng thức ăn xanh, cá tạp chuyển sang nuôi sử dụng thức ăn công nghiệp để chủ động nguồn thức ăn, giảm giá thành sản phẩm và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu: Xác định vị trí nuôi phù hợp cũng có thể tránh được hiện tượng hạn hán kéo dài, mưa lũ. Xây dựng lịch mùa vụ thích hợp cho từng vùng nuôi cụ thể, nhằm giảm thiểu được các vấn đề về bệnh và rủi do do thiên tai, môi trường, giảm chi phí sản xuất, đem lại hiệu quả kinh tế tốt hơn.
- Về thị trường tiêu thụ sản phẩm: Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp lớn tích cực tham gia các hội chợ triển lãm, hội thảo về thương mại thủy sản, đẩy mạnh công tác tiếp thị để tiếp cận thị trường.
- Về cơ chế chính sách: Hỗ trợ đầu tư các hạ tầng vùng nuôi tập trung theo quy định tại Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 07/7/2014 của Chính phủ; chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản theo Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã.
- Giải pháp về vốn đầu tư: Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất, mở rộng các ngành nghề, phát triển sản xuất kinh doanh cá biển.
- Giải pháp về quản lý nhà nước: Tăng cường công tác quản lý nhà nước về kiểm tra, kiểm soát, kiểm dịch con, đẩy mạnh việc giao, cho thuê đất, mặt nước cho phát triển nuôi cá lồng, thực hiện tốt công tác cấp giấy chứng nhận giao hoặc cho thuê ổn định lâu dài đất, mặt nước đối với các vùng theo quy hoạch để các thành phần kinh tế yên tâm đầu tư phát triển./.